* Kiến nghị của cử tri: Đề nghị trình xem xét sửa đổi quy định Hội đồng nhân dân tỉnh quyết định kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân; thời gian bố trí vốn đối với nguồn vốn ngân sách địa phương theo quy định tại khoản 2, Điều 52 Luật Đầu tư công và quy định tại khoản 2, Điều 68 Luật Đầu tư công, khoản 1, Điều 48 Nghị định số 40/2020/NĐ-CP ngày 06/4/2020 của Chính phủ theo hướng Hội đồng nhân dân cấp nào quyết định chủ trương đầu tư, quyết định giao vốn thì cấp đó quyết định thời gian bố trí vốn, quyết định kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân nguồn vốn cấp mình quản lý.
Lý do: Theo quy định của Luật Đầu tư công Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định thời gian bố trí vốn và kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân nguồn vốn ngân sách địa phương theo quy định tại khoản 2, Điều 52 Luật Đầu tư công và quy định tại khoản 2, Điều 68 Luật Đầu tư công, khoản 1, Điều 48 Nghị định 40/2020/NĐ-CP. Quy định trên gây ảnh hưởng rất lớn đến tiến độ triển khai thực hiện các dự án cấp huyện, chưa phát huy được vai trò tính chủ động trong triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công tại các đơn vị, nhất là đối với nguồn ngân sách cấp huyện.
Trả lời của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Công văn số 6057/BKHĐT-TH ngày 31/7/2024): Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 18/6/2024 về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, đề xuất Chính phủ để báo cáo Quốc hội về việc sửa đổi Luật Đầu tư công tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XV. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với các cơ quan liên quan, nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư công. Đối với kiến nghị nêu trên của cử tri, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin tiếp thu và sẽ rà soát, nghiên cứu trong quá trình sửa đổi Luật Đầu tư công.
* Kiến nghị của cử tri: Đề nghị Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì xây dựng Đề án và Nghị quyết của Quốc hội về việc tách công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập theo nguyên tắc áp dụng đối với dự án đầu tư công sử dụng vốn ngân sách nhà nước có quy mô dự án nhóm B, nhóm C có yêu cầu thu hồi đất để thực hiện, phù hợp với các quy hoạch liên quan; dự án đã được cấp có thẩm quyền giao kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách nhà nước giai đoạn 2021-2025, bảo đảm nguồn vốn, khả năng cân đối vốn đầu tư nguồn ngân sách nhà nước để thực hiện.
Lý do: Đối với quy định của pháp luật hiện hành chỉ cho phép tách riêng việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập đối với dự án quan trọng quốc gia và dự án nhóm A. Cụ thể: Tại khoản 1, điều 5 Luật Đầu tư công năm 2019 quy định: Trường hợp thật sự cần thiết tách riêng việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập, đối với dự án quan trọng quốc gia do Quốc hội xem xét, quyết định; đối với dự án nhóm A do Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh xem xét, quyết định theo thẩm quyền. Việc tách riêng dự án độc lập được thực hiện khi phê duyệt chủ trương đầu tư dự án quan trọng quốc gia, dự án nhóm A.
Trong thời gian vừa qua, không ít dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội của tỉnh Sơn La, nhất là các dự án giao thông chậm tiến độ do vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng. Nguyên nhân chính của việc chậm trễ giải phóng mặt bằng là việc gộp chung khâu quan trọng này vào quy trình tổng thể của dự án. Chủ đầu tư phải đi giải phóng mặt bằng trong khi không có đầy đủ chức năng thẩm quyền, khi vấp phải sự phản đối của người dân dễ lâm vào bế tắc, Bên cạnh đó sự phối hợp giữa chủ đầu tư và chính quyền các địa phương, sở, ngành liên quan chưa hiệu quả, đồng bộ. Nhiều dự án chưa giải phóng mặt bằng đã khởi công, chỉ đạt được bước tiến rất nhỏ hoặc làm “xôi đỗ” rồi phải nằm im chưa thể triển khai tiếp. Trong khi đó giá nguyên vật liệu, nhân công, các quy định của pháp luật liên tục có sự biến động; đến khi tái khởi động được thì dự án đội vốn hoặc phát sinh những khó khăn khác. Bên cạnh đó, theo quy định của Luật Đầu tư công về việc bố trí vốn hằng năm cho công tác giải phóng mặt bằng cũng gặp khó khăn do việc giải phóng mặt bằng phải đi trước, khi dự án được phê duyệt mới đủ điều kiện bố trí vốn hằng năm để thực hiện.
Trả lời của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Công văn số 6057/BKHĐT-TH ngày 31/7/2024): Thực hiện chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và Phó Thủ tướng Chính phủ Trần Hồng Hà, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã có văn bản gửi các bộ, cơ quan, địa phương về việc đề xuất dự án áp dụng thí điểm tách công tác giải phóng mặt bằng thành dự án độc lập ra khỏi dự án đầu tư công nhóm B, nhóm C. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã gửi hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị quyết thí điểm cho Bộ Tư pháp, Bộ Tư pháp đã tổ chức thẩm định hồ sơ. Hiện nay, căn cứ ý kiến thẩm định của Bộ Tư pháp và ý kiến của các bộ: Tài chính, Ngoại giao, Nội vụ, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã hoàn thiện hồ sơ đề nghị xây dựng Nghị quyết, trình Chính phủ xem xét, quyết định để báo cáo Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2024.
Bên cạnh đó, thực hiện chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết số 93/NQ-CP ngày 18/6/2024 về nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để thúc đẩy tăng trưởng, kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô, Chính phủ đã giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư nghiên cứu, đề xuất Chính phủ để báo cáo Quốc hội về việc sửa đổi Luật Đầu tư công tại Kỳ họp thứ 8, Quốc hội Khóa XV. Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang phối hợp với các cơ quan liên quan, nghiên cứu, rà soát, sửa đổi, bổ sung Luật Đầu tư công. Đối với kiến nghị nêu trên của cử tri, Bộ Kế hoạch và Đầu tư xin tiếp thu và sẽ rà soát, nghiên cứu trong quá trình sửa đổi Luật Đầu tư công.
* Kiến nghị của cử tri: Đề nghị xem xét, quy định phân cấp cho các địa phương chủ động điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 nguồn vốn ngân sách Trung ương trong danh mục và không vượt tổng mức vốn trung hạn được Thủ tướng Chính phủ giao. Xem xét bỏ khoản 3, Điều 46, Nghị định số 40/2020/NĐ-CP ngày 06/4/2020 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư công (3. Thời gian điều chỉnh kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước hằng năm giữa các dự án trong nội bộ của bộ, cơ quan trung ương và địa phương trước ngày 15 tháng 11 năm kế hoạch).
Lý do: Trong quá trình trình triển khai thực hiện kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 nguồn vốn ngân sách Trung ương của tỉnh có một số dự án dùng triển khai, hoàn thành hết nhu cầu sử dụng vốn giao, bên cạnh đó một số dự án có nhu cầu bổ sung vốn ngân sách Trung ương. Thực hiện chỉ đạo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La đã tổng hợp đề xuất phương án điều chỉnh kế hoạch đầu tư công trung hạn cho từ các dự án hết nhu cầu để hoàn trả vốn ủng trước và bổ sung vốn cho các dự án có nhu cầu sử dụng vốn ngân sách trung ương. Tuy nhiên, quá trình đề nghị điều chỉnh mất nhiều thời gian (có dự án đề nghị điều chỉnh từ năm 2022 đến nay chưa được điều chỉnh) ảnh hưởng lớn đến tiến độ, thực hiện của địa phương.
Việc quy định thời gian điều chỉnh trước ngày 15 tháng 11 năm kế hoạch tại khoản 3, Điều 46 Nghị định số 40/2020/NĐ-CP gây hạn chế cho các địa phương trong việc phấn đấu hoàn thành giải ngân tối đa kế hoạch vốn giao hàng năm. Nguyên nhân chủ yếu do một số dự án đến hết niên độ ngân sách mới cơ bản xác định được chính xác khối lượng thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn giao. Kịp thời tháo gỡ khó khăn vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Trả lời của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Công văn số 6057/BKHĐT-TH ngày 31/7/2024): Việc quy định thời gian điều chỉnh kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước hằng năm trong nội bộ của bộ, cơ quan trung ương và địa phương trước ngày 15 tháng 11 năm kế hoạch (tại khoản 3 Điều 46 Nghị định số 40/2020/NĐ-CP của Chính phủ) là thống nhất và phù hợp với quy định về thời gian điều chỉnh dự toán hằng năm giữa các đơn vị sử dụng ngân sách tại khoản 3 Điều 53 Luật Ngân sách nhà nước. Mặt khác, quy định nêu trên cũng nhằm bảo đảm bộ, cơ quan, địa phương và các đơn vị sử dụng ngân sách trực thuộc có đủ thời gian để giải ngân vốn đối với các dự án được điều chỉnh tăng kế hoạch vốn hằng năm.
Hiện nay, Luật Đầu tư công đã quy định việc phân cấp triệt để cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương trong phân bổ và điều chỉnh kế hoạch vốn đầu tư công nguồn ngân sách nhà nước hằng năm của bộ, cơ quan trung ương, địa phương mình. Do đó, bộ, cơ quan trung ương và địa phương cần đẩy mạnh hiệu lực, hiệu quả của công tác lập kế hoạch và phân bổ vốn ngay từ đầu năm, đồng thời theo dõi sát sao tình hình thực hiện của các dự án trong năm, kịp thời điều chuyển kế hoạch vốn cho các dự án đủ điều kiện và có khả năng giải ngân nhằm thúc đẩy giải ngân kế hoạch vốn, tránh tình trạng lơ là, điều chuyển vốn quá chậm dẫn đến không giải ngân hết vốn được giao, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công.
* Kiến nghị của cử tri: Đề nghị tổng hợp báo cáo Chính phủ, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021- 2025 cho dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu, đoạn tuyến thuộc địa bàn tỉnh Sơn La để tỉnh có cơ sở triển khai thực hiện. Số vốn đề nghị giao 3.400 tỷ đồng. (Ủy ban nhân dân tỉnh Sơn La đã có Báo cáo số 108/BC-UBND ngày 10/3/2024 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư).
Trả lời của Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Công văn số 6057/BKHĐT-TH ngày 31/7/2024): Dự án đầu tư xây dựng tuyến đường bộ cao tốc Hòa Bình - Mộc Châu, đoạn tuyến thuộc địa bàn tỉnh Sơn La đã được giao kế hoạch vốn đầu tư công trung hạn vốn ngân sách Trung ương giai đoạn 2021- 2025 là 3.400 tỷ đồng tại Quyết định số 490/QĐ-TTg ngày 10/6/2024 của Thủ tướng Chính phủ về việc giao bổ sung kế hoạch đầu tư công trung hạn vốn ngân sách trung ương từ dự phòng chung, dự phòng nguồn ngân sách trung ương của kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025.
* Kiến nghị của cử tri: Đề nghị hướng dẫn kinh phí quản lý, kiểm tra, nghiệm thu rừng đối với các chương trình, dự án thuộc các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 do tại Điều 9 Thông tư số 55/2023/TT-BTC ngày 15/8/2023 của Bộ Tài chính quy định quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí sự nghiệp từ nguồn ngân sách nhà nước thực hiện các Chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2021 - 2025 không quy định về nội dung này nên Tỉnh khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện.
Trả lời của Bộ Tài chính (Công văn số 9395/BTC-HCSN ngày 05/9/2024 của Bộ Tài chính):
Nội dung hỗ trợ kinh phí quản lý, kiểm tra, nghiệm thu cho hoạt động khoán bảo vệ rừng, khoanh nuôi tái sinh có trồng rừng bổ sung, hỗ trợ trồng rừng phòng hộ, hỗ trợ trồng rừng sản xuất bằng loài cây lấy gỗ, cây lâm sản ngoài gỗ của chủ rừng tại khoản 3 Điều 10 Thông tư số 15/2022/TT-BTC được kế thừa quy định tại khoản 3 Điều 3 Thông tư liên tịch số 93/2016/TTLT-BTCBNNPTNT (Thông tư liên tịch số 93/2016/TTLT-BTC-BNNPTNT ngày 27/6/2016 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hướng dẫn chế độ quản lý, sử dụng kinh phí sự nghiệp thực hiện Nghị định số 75/2015/NĐ-CP ngày 09 tháng 9 năm 2015 của Chính phủ về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng, gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số giai đoạn 2015-2020):
Tiêu chí phân bổ vốn Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi quy định tại Quyết định 39/2021/QĐ-TTg ngày 30/12/2021 của Thủ tướng Chính phủ không quy định việc phân bổ vốn ngân sách trung ương cho nội dung quản lý, kiểm tra nghiệm thu của Tiểu dự án 1 - Dự án 3 và cũng không quy định bố trí vốn đối ứng từ ngân sách địa phương để thực hiện:
Tại Tiểu dự án 3 - Dự án 10 về kiểm tra, giám sát, đánh giá, đào tạo, tập huấn khi xây dựng Chương trình cũng không dự kiến khoản chi này. Do đó, trên cơ sở rà soát căn cứ pháp lý, Bộ Tài chính thấy không có cơ sở để tiếp tục hướng dẫn nội dung trên tại Thông tư số 55/2023/TT-BTC.
Để xử lý vấn đề này, đề nghị Đoàn Đại biểu Quốc hội tỉnh Bắc Kạn phản ánh ý kiến, kiến nghị của cử tri đến Ủy ban Dân tộc là cơ quan được Chính phủ ý giao chủ trì trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định 39/2021/QĐ-TTg và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn là cơ quan được giao chủ trì Tiểu dự án 1 - Dự án 3 Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi để được hướng dẫn theo đúng thẩm quyền.
* Kiến nghị của cử tri: Đề nghị quan tâm, sớm trình Bộ Chính trị xem xét, thông qua “Đề án định hướng huy động nguồn vốn xã hội hóa đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không” làm cơ sở để UBND tỉnh Sơn La cập nhật các nội dung liên quan vào “Đề án xã hội hóa đầu tư, khai thác Cảng hàng không Nà Sản”; đồng thời chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ lập Quy hoạch chi tiết Cảng hàng không Nà Sản thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 làm cơ sở triển khai các thủ tục thu hút đầu tư xây dựng Cảng hàng không Nà Sản theo quy định”.
Trả lời của Bộ Giao thông vận tải (Công văn số 8633/BGTVT-KHĐT ngày 13/8/2024):
1. Về Quy hoạch Cảng hàng không Nà Sản: Triển khai Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Bộ GTVT đã phê duyệt nhiệm vụ, dự toán lập Quy hoạch Cảng hàng không Nà Sản thời kỳ 2021-2030 (Quyết định số 834/QĐ-BGTVT ngày 04/7/2024 của Bộ GTVT), tầm nhìn đến năm 2050 và giao Cục Hàng không Việt Nam lập quy hoạch để thực hiện theo quy định, dự kiến hoàn thành năm 2025.
2. Về Đề án định hướng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư, quản lý, khai thác kết cấu hạ tầng cảng hàng không (Đề án): Thực hiện chỉ đạo của Thường trực Chính phủ, Lãnh đạo Chính phủ (Thống báo số 213/TB-VPCP ngày 22/12/2023 và số 46/TB-VPCP ngày 19/4/2024 của Văn phòng Chính phủ), vừa qua Bộ GTVT đã phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành liên quan (Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Bộ Tư pháp, Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh nghiệp, Tổng công ty Cảng hàng không Việt Nam) để rà soát, thống nhất và hoàn thiện Đề án; đã báo cáo Thủ tướng Chính phủ về kết quả hoàn thiện Đề án tại Công văn số 425/BGTVT-KHĐT ngày 24/7/2024 và kiến nghị cấp có thẩm quyền xem xét, cho phép Bộ báo cáo Bộ Chính trị trong Quý III/2024.
Sau khi Đề án được thông qua, Bộ GTVT sẽ phối hợp chặt chẽ với Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố xây dựng, hoàn thiện Đề án xã hội hóa đầu tư, khai thác cảng hàng không tại địa phương, trong đó có Cảng hàng không Nà Sản.
* Kiến nghị của cử tri: Đề nghị hướng dẫn, quy định cụ thể về phạm vi giải phóng mặt bằng đối với phía hạ lưu các công trình cống thoát nước nhỏ trên đường giao thông. Lý do: Hiện nay, tại một số công trình cống thoát nước nhỏ trên đường giao thông, việc tỉnh khối lượng giải phóng mặt bằng chỉ tinh theo phạm vi thiết kế và phần thu hồi để phục vụ thi công xây dựng công trình, chưa có phần thu hồi đất phía hạ lưu công trình do tác động của dòng chảy.
Trả lời của Bộ Giao thông vận tải (Công văn số 9122/BGTVT-CQLXD ngày 22/8/2024): Phạm vi giải phóng mặt bằng đối với các công trình kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ được xác định trên cơ sở phạm vi phần đất để đầu tư xây dựng công trình đường bộ và phần đất để bảo vệ, bảo trì đường bộ, hành lang an toàn đường bộ đã được quy định cụ thể tại các Nghị định của Chính phủ về quản lý và bảo vệ kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (Phạm vi đất dành cho đường bộ được quy định tại Điều 14 Nghị định số 11/2010/NĐ-CP ngày 24/02/2010 của Chính phủ (được sửa đổi, bổ sung bởi khoản 1 Điều 1 Nghị định số 100/2013/NĐ-CP ngày 03/9/2013)). Trong quá trình triển khai thực hiện, đối với các công trình thoát nước thuộc các dự án đầu tư xây dựng công trình giao thông, chủ đầu tư chỉ đạo các đơn vị tư vấn thiết kế có trách nhiệm điều tra, khảo sát, nghiên cứu, tính toán các tác động của dòng chảy (đặc biệt là dòng chảy phía hạ lưu công trình) để có giải pháp thiết kế phù hợp như: lựa chọn khẩu độ công trình thoát nước; thiết kế mương dẫn dòng, dốc nước, bậc nước, hố tiêu năng, gi tiêu năng... theo tiêu chuẩn Đường ô tô - yêu cầu thiết kế và khung tiêu chuẩn được duyệt của dự án để hạn chế tối đa tác động của dòng chảy đến hạ lưu công trình, Trên cơ sở hồ sơ thiết kế công trình được duyệt, chủ đầu tư xác định giới hạn đất dành cho đường bộ, lập thủ tục đề nghị cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất, thực hiện bồi thường theo quy định của pháp luật về đất đai.
Do vậy, khi hồ sơ thiết kế được duyệt có đưa ra giải pháp thiết kế để hạn chế tối đa tác động của dòng chảy đến hạ lưu công trình thì phạm vi giải phóng mặt bằng đã bao gồm phần đất phía hạ lưu công trình để xây dựng các hạng mục hạn chế tác động của dòng chảy.
* Kiến nghị của cử tri: Đề nghị Bộ Khoa học và Công nghệ có Thông tư thay thế Thông tư số 01/2021/TT-BKHCN ngày 01/3/2021 hướng dẫn chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, cấp huyện (viết tắt là Thông tư số 01/2021/TT-BKHCN).
Trả lời của Bộ Khoa học và Công nghệ (Công văn số 3027/BKHCN-TCCB ngày 13/8/2024): Ngày 02/6/2023, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 28/2023/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Khoa học và Công nghệ. Để bảo đảm phù hợp, thống nhất với Nghị định số 28/2023/NĐCP, các văn bản pháp luật mới ban hành và yêu cầu thực tiễn của địa phương, Bộ Khoa học và Công nghệ đã phê duyệt Danh mục các văn bản soạn thảo năm 2024, trong đó, có Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 01/2021/TT-BKHCN.
Triển khai công tác này, Bộ Khoa học và Công nghệ đã có Công văn số 1153/BKHCN-TCCB gửi UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương báo cáo tình hình thực hiện Thông tư số 01/2021/TT-BKHCN. Bộ Khoa học và Công nghệ đang khẩn trương tổng hợp, tiếp thu ý kiến của các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, xây dựng, hoàn chỉnh Dự thảo để ban hành Thông tư vào Quý IV/2024.
* Kiến nghị của cử tri: Đề nghị hướng dẫn lộ trình xây dựng Đề án đầu tư nâng cao năng lực cho Trung tâm kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thành Trung tâm vùng Tây Bắc giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn giai đoạn 2030-2050 (theo Thông báo Kết luận số 1680/TB-BKHCN ngày 08/7/2022 của Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ).
Trả lời của Bộ Khoa học và Công nghệ (Công văn số 3037/BKHCN-TĐC ngày 13/8/2024):
Ngày 25/12/2023, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1676/QĐ-TTg phê duyệt Quy hoạch tỉnh Sơn La thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, trong đó có nội dung về phương án phát triển mạng lưới khoa học công nghệ: “Đầu tư nâng cao năng lực kiểm định, hiệu chuẩn đo lường và xây dựng Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thành Trung tâm của vùng Tây Bắc” (tại Mục VII, Khoản 5).
Theo đó, việc xây dựng Đề án đầu tư nâng cao năng lực cho Trung tâm Kỹ thuật Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng thành Trung tâm vùng Tây Bắc giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn giai đoạn 2030-2050 (Đề án) là phù hợp với Quy hoạch tỉnh và góp phần xây dựng Sơn La là cực tăng trưởng của tiểu vùng theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Quy hoạch vùng trung du và miền núi phía Bắc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 369/QĐ-TTg ngày 04/5/2024).
Để xây dựng Đề án nêu trên, địa phương cần thực hiện các nội dung như: (i) Khảo sát nhu cầu tại địa phương trong vùng về cung cấp các dịch vụ tiêu chuẩn đo lường chất lượng; (ii) Khảo sát năng lực các địa phương trong vùng (để tránh đầu tư chồng chéo, lãng phí); (ii) Đánh giá hiện trạng nguồn lực hiện có của địa phương (con người, hạ tầng, cơ sở vật chất),...
Căn cứ vào các kết quả trên, địa phương xây dựng Đề án (tổng quan tình hình, xác định nhu cầu, đề xuất chủ trương, mô tả kế hoạch, lộ trình thực hiện, phương án tổ chức triển khai, nguồn kinh phí dự kiến...) theo từng giai đoạn.
Đồng thời, đối với việc đầu tư của Đề án, địa phương cần tuân theo quy định pháp luật liên quan. Bộ Khoa học và Công nghệ sẽ góp ý đối với từng nội dung của dự thảo Đề án khi nhận được đề nghị của địa phương.
Bên cạnh đó, Bộ Khoa học và Công nghệ sẵn sàng đồng hành, hỗ trợ địa phương để giải quyết các khó khăn, vướng mắc liên quan đến năng lực kiểm định, hiệu chuẩn đo lường tại địa phương.
* Kiến nghị của cử tri: Đề nghị xem xét sửa đổi điểm a, khoản 5 Điều 1 của Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Chính phủ về việc quy định chính sách hỗ trợ học sinh và trường phổ thông ở xã, thôn đặc biệt khó khăn, theo hướng: Giao HĐND tỉnh quy định khung khoảng cách làm căn cứ xác định học sinh không thể đi đến trường và trở về nhà trong ngày đối với từng cấp học: tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông (bao gồm cả địa hình cách trở, giao thông đi lại khó khăn: phải qua sông, suối không có cầu; qua đèo, núi cao; qua vùng sạt lở đất, đá). Trên cơ sở khung về khoảng cách đã được HĐND tỉnh quy định, giao UBND tỉnh quyết định địa bàn làm căn cứ xác định học sinh không thể đi đến trường và trở về nhà trong ngày.
Lý do: Trong thực tế thường có sự thay đổi danh mục xã, bản đặc biệt khó khăn theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ, Ủy ban Dân tộc; tên bản thay đổi theo các Nghị quyết của HĐND tỉnh về thành lập mới, sáp nhập, đổi tên bản và sự phát triển thường xuyên về hạ tầng giao thông, nhất là khu vực khó khăn (đường, cầu cống được sửa chữa, nâng cấp, làm mới ... dẫn đến có sự thay đổi về khoảng cách từ nhà đến trường của học sinh, kể cả khoảng cách do cách trở) và do thiên tai, mưa lũ, sạt lở làm địa hình cách trở dẫn đến học sinh thuộc diện đang được hưởng chính sách trở thành diện không đủ điều kiện được hưởng chính sách và ngược lại. Do đó việc giao UBND tỉnh quyết định địa bàn làm căn cứ xác định học sinh không thể đi đến trường và trở về nhà trong ngày là phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ sở trong quá trình rà soát, tổng hợp, phê duyệt danh sách học sinh hưởng chính sách theo Nghị định đảm bảo kịp thời.
Trả lời của Bộ Giáo dục và Đào tạo (Công văn số 4270/BGDĐT-VP ngày 13/8/2024): Việc quy định khoảng cách làm căn cứ xác định học sinh không thể đi đến trường và trở về nhà trong ngày đối với từng cấp học tại Nghị định số 116/2016/NĐ-CP ngày 18/7/2016 của Chính phủ nhằm đảm bảo tính thống nhất trong việc xác định đối tượng thụ hưởng chính sách trên địa bàn cả nước và khả năng cân đối ngân sách của nhà nước hỗ trợ cho các địa phương.
Thực hiện Luật Giáo dục 2019 và Nghị quyết số 01/NQ-CP ngày 06/01/2023 của Chính phủ, Bộ GDĐT đã xây dựng dự thảo Nghị định quy định chính sách cho trẻ em nhà trẻ, học sinh, học viên ở vùng đồng bào dân tộc thiếu số và miền núi, vùng bãi ngang, ven biển và hải đảo và cơ sở giáo dục có trẻ em nhà trẻ, học sinh hưởng chính sách (thay thế Nghị định số 116/2016/NĐ-CP và Thông tư liên tịch số 109/2009/TTLT/BTC-BGDĐT). Tại dự thảo Nghị định đã phân cấp cho Ủy ban nhân dân tỉnh “Quy định cụ thể địa bàn làm căn cứ xác định học sinh, học viên không thể đi đến trường và trở về nhà trong ngày”.
Ngày 22/4/2024, Bộ Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có Tờ trình số 393/TTr-BGDĐT trình Chính phủ hồ sơ dự thảo Nghị định để Chính phủ xem xét, ban hành./.
|